Mẹo Bác Hồ đã đi bào nhiều nước trên thế giới
Thủ Thuật về Bác Hồ đã đi bào nhiều nước trên thế giới Chi Tiết
Hoàng Gia Trọng Phúc đang tìm kiếm từ khóa Bác Hồ đã đi bào nhiều nước trên thế giới được Update vào lúc : 2022-09-10 03:50:04 . Với phương châm chia sẻ Mẹo về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết Mới Nhất. Nếu sau khi Read tài liệu vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại phản hồi ở cuối bài để Tác giả lý giải và hướng dẫn lại nha.
“… Tôi đến Bến Nhà Rồng một chiều xuân nắng tỏa. Qua hàng dừa tóc xõa nhìn sóng nước xôn xao. Tiếng còi tầm ôi da diết làm thế nào. Tưởng con tàu rời xa bến năm nào…”.
Mỗi khi tháng 6 về, những câu hát trong ca khúc Bến Nhà Rồng của nhạc sĩ Trần Hoàn lại vang lên nhắc nhớ đến một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc bản địa, gắn sát với địa danh Bến cảng Nhà Rồng - nơi cách đó 111 năm, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lên con tàu Amiral Latouche Tréville, khởi đầu chuyến hành trình dài tìm đường cứu nước kéo dãn suốt 30 năm, để rồi sau đó đã mang về ánh sáng tự do cho dân tộc bản địa.

“Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước”
Trước cảnh nước mất, nhà tan, tận mắt tận mắt chứng kiến sự bóc lột tàn bạo của thực dân và phong kiến tay sai, nỗi thống khổ của nhân dân lao động, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã sớm hình thành khát vọng tìm đường giải phóng dân tộc bản địa và có tầm nhìn độc lập, sáng tạo so với những bậc tiền bối. Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước, với một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”(1).
Và ngày 5/6/1911 với tên mới Văn Ba, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã lên con tàu Amiral Latouche Tréville, rời bến cảng Nhà Rồng, khởi đầu một cuộc hành trình dài tìm đường cứu nước. Mục đích của chuyến du ngoạn này, hơn 10 năm sau, năm 1923, Người đã trả lời nhà thơ, nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtan: “Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm những gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy...”.
Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ Anna Louise Strong, Người nói: "Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, thời điểm hiện nay thường tự hỏi nhau, ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này thì nghĩ là Nhật, người kia thì nghĩ là Anh, có người thì nghĩ là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi"(2).

Trong vòng 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi thời cơ để được đến nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của Người đã in dấu trên nhiều nước thuộc những đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt, Người đã nghỉ chân khá lâu ở Mỹ, Anh và Pháp. Người hòa tâm hồn vào môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường của những người dân lao động, làm bất kể việc gì để sống và hoạt động và sinh hoạt giải trí, như: phụ nhà bếp, cào tuyết, đốt lò, chụp hình, làm vườn, vẽ thuê...
Nhà thơ Chế Lan Viên đã tả lại những trở ngại vất vả, vất vả này của Người qua những câu thơ: “Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê/Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá/Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ/ Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?” (Người đi tìm hình của nước).
30 năm - đó là một hành trình dài dài với biết bao gian truân, thử thách mà Người đã trải qua với mục tiêu thiêng liêng, cao cả: “Tìm hình của Nước”. Hình của nước là “Thế đi đứng của toàn dân tộc bản địa”; là độc lập, tự do, là áo cơm, niềm sung sướng của nhân dân. Lý tưởng ấy vượt lên tất cả những liên tưởng thông thường về không khí địa lý ("Một góc quê hương nửa đời quen thuộc"). Lý tưởng ấy cũng không phải là những mơ tưởng siêu hình trong sương khói xa xôi mà hiện hữu rõ ràng, làm ra giá trị đời sống con người. Con đường của Hồ Chí Minh là con phố của chủ nghĩa nhân văn cao cả, phổ quát, hướng tới những quyền lợi cơ bản mà tạo hóa đã ban cho tất cả mọi người trên toàn thế giới (như trong "Tuyên ngôn Độc lập" mà Người đã nhấn mạnh vấn đề). Nhưng đó là một con phố chông gai, trải qua “lửa đỏ và nước lạnh”.
“Đây là con phố giải phóng tất cả chúng ta”

Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm và nhận thức của Người. Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, Người đã thay mặt những người dân Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Versailles yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc bản địa cho nhân dân An Nam. Tuy bản yêu sách không được đồng ý nhưng đã được Viral rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong dư luận nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của những nước thuộc địa; đồng thời cũng đem lại cho Người một nhận thức là những dân tộc bản địa muốn được giải phóng chỉ hoàn toàn có thể nhờ vào sức của chính mình.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện chủ nghĩa Mác-Lênin qua bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc bản địa và vấn đề thuộc địa”. Luận cương của Lênin đến với Nguyễn Ái Quốc như một luồng ánh sáng mới soi rõ thêm con phố cứu nước mà người thanh niên yêu nước đang tìm kiếm. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó, Bác nói: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đến khổ! Đây là cái thiết yếu cho tất cả chúng ta, đây là con phố giải phóng tất cả chúng ta!"(3)
Với lập trường yêu nước đúng đắn, Người vạch ra chân lý :“muốn cứu nước và giải phóng dân tộc bản địa không còn con phố nào khác con phố cách mạng vô sản”. Và “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được những dân tộc bản địa bị áp bức và những người dân lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Kết luận này xác định sự chuyển biến sâu sắc trong tư duy của Nguyễn Ái Quốc, từ tình nhân nước chân chính trở thành người cộng sản - người đảng viên cộng sản đầu tiên của Việt Nam.

Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, sẵn sàng sẵn sàng về lý luận cho việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chính sách thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ báo Thanh Niên ra ngày 21/6/1925, Người đã sẵn sàng sẵn sàng về đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng. Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc sẵn sàng sẵn sàng về tổ chức và cán bộ thông qua việc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925) và tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô...
Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của Người, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con phố cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản được xác định.
Người về mang tới những mùa Xuân

Đầu năm 1941, sau 30 năm dạt dẹo hoạt động và sinh hoạt giải trí ở nước ngoài, Người trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), quyết định chuyển hướng kế hoạch cách mạng phù phù phù hợp với sự thay đổi mau lẹ của tình hình quốc tế và trong nước, đặt trách nhiệm giải phóng dân tộc bản địa lên số 1, tổ chức vận động, tập hợp lực lượng toàn dân tộc bản địa; thành lập Mặt trận Việt Minh; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và địa thế căn cứ địa, tạo nên những cao trào cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ và tự tin trên phạm vi toàn nước
Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã link thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc bản địa, làm ra thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chính sách thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân gia chủ dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tiếp đó, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bước trên con phố mà Người đã chọn. Đó là con phố của độc lập dân tộc bản địa và chủ nghĩa xã hội, con phố mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước và dân tộc bản địa ta vượt qua biết bao trở ngại vất vả, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác - giành độc lập dân tộc bản địa, thống nhất đất nước; thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, tân tiến hóa đất nước và tích cực hội nhập quốc tế.
Những thắng lợi đó là minh chứng rõ ràng nhất về những giá trị to lớn, soi sáng, dẫn đường của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đồng thời, thể hiện tầm vóc trí tuệ và bản lĩnh của Đảng ta trong việc vận dụng sáng tạo và tương hỗ update, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của Người không riêng gì có trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc bản địa mà trong cả sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày này.
-------------------------------------------------- (1): Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của BCH T.Ư Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Tp Hà Nội Thủ Đô, 1975, tr 5,6. (2): Báo Nhân Dân số 4062, ngày 18/5/1965
(3): Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Tp Hà Nội Thủ Đô, 2011, tập 12, tr.562
Tải thêm tài liệu liên quan đến nội dung bài viết Bác Hồ đã đi bào nhiều nước trên thế giới
Post a Comment